Quảng cáo: Khi tin đồn về việc nâng cấp khung đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ bắt đầu lan truyền, và đã xảy ra trong thời gian Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm Việt Nam vào cuối tuần này, có nhiều người ám chỉ rằng điều này chủ yếu do nhu cầu của Việt Nam để cân bằng sự ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc, đặc biệt là sự mở rộng về quân sự trên Biển Đông.
Điều này hoàn toàn sai lầm.
Kể từ sau cuộc Chiến tranh Lạnh, chính sách đối ngoại của Việt Nam đã là độc lập, tự lực, đa dạng hóa và đa phương. Nguyên tắc này đã được thực hiện một cách nhất quán và đóng góp rất nhiều vào việc nâng cao địa vị quốc tế và thành công của đất nước. Do đó, không có lý do gì để đất nước phải rời bỏ những nguyên tắc đã được kiểm chứng quá thời gian.
Thứ hai, Việt Nam đã rút ra một bài học đau đớn rằng việc hợp tác với một siêu cường nhằm cân bằng với cường quốc khác không phải là cách tối ưu để bảo vệ lợi ích của mình. Ví dụ, việc hợp tác với Liên Xô trong thời Chiến tranh Lạnh không đủ để bảo vệ các đảo và bãi cát của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa khỏi việc bị chiếm đóng bởi Trung Quốc vào năm 1988. Chính sách đối ngoại độc lập và tự lực của Việt Nam, do đó, không chỉ là một lời nhắc nhở cho chính thị trường, mà còn là một tuyên bố với thế giới.
Diplomat Brief: Bản tin hàng tuần
Nhận thông tin tổng quan về câu chuyện của tuần, và những câu chuyện đang phát triển đáng chú ý trên toàn khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Đăng ký nhận bản tin
Thứ ba, trong khi nhiều nhà phân tích phương Tây coi "đối tác chiến lược" là một thuật ngữ mang tính phòng vệ và an ninh, Việt Nam lại không thấy như vậy. Trong từ điển ngoại giao của Việt Nam, đối tác chiến lược hoặc đối tác chiến lược toàn diện là đối tác mà Việt Nam có một mối quan hệ toàn diện, thực chất, tin tưởng và lâu dài. Quan hệ quốc phòng và an ninh không cần phải là trọng tâm hoặc phần quan trọng nhất của một mối quan hệ như vậy. Singapore, Malaysia, New Zealand và Tây Ban Nha là một số ví dụ về đối tác chiến lược của Việt Nam, trong đó sự hợp tác về quốc phòng và an ninh không phải là trọng điểm chính của mối quan hệ này.
Bạn muốn đọc thêm? Nhấp vào đây để đăng ký để được truy cập đầy đủ. Chỉ với 5$ mỗi tháng.
Quả cảm, nếu Việt Nam thực sự muốn hợp tác với Mỹ để cân bằng Trung Quốc, dưới khung đối tác toàn diện hiện tại, không có gì mà Việt Nam không thể làm được. Trỏ vào Trung Quốc là nguyên nhân của việc nâng tầm khung đối tác là một sự giả định quá cao.
Vậy tại sao Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ? Cần lưu ý rằng trong chính sách đa hướng đối ngoại của Việt Nam, mặc dù quan hệ đối tác lớn, tăng trưởng nhanh chóng và toàn diện, Hoa Kỳ là thành viên không thường trực duy nhất trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam chưa có "đối tác chiến lược".
So với các quốc gia Đông Nam Á khác, Việt Nam đã trải qua một khởi đầu khá khó khăn và chậm chạp trong quan hệ với Hoa Kỳ, và trong nhiều khía cạnh, Việt Nam vẫn kém các mái nhà hàng xóm Đông Nam Á khác trong quan hệ với siêu cường này.
Như được thể hiện trong tài liệu này do Hội Đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN biên soạn, số lượng công ty Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam, ví dụ, chỉ bằng một phần tư hoặc nhiều nhất là một nửa so với những công ty đã hoạt động ở các quốc gia thành viên gốc của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Số lượng cuộc tương tác quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, trung bình, chỉ bằng một phần ba số lượng của một số đối tác Đông Nam Á và chỉ tương đương với Campuchia và Brunei.
Quảng cáo
Là quốc gia có quyền lực kinh tế hàng đầu thế giới, quan hệ với Mỹ là trọng tâm của chiến lược phát triển của Việt Nam. Là một quốc gia thu nhập trung bình thấp, Việt Nam khao khát trở thành một nền kinh tế tăng trưởng nhanh để đạt mức quốc gia thu nhập trung bình cao hơn vào năm 2030 và trở thành một nước có thu nhập cao vào năm 2045. Với Việt Nam, nền kinh tế cũng là một hình thức bảo đảm an ninh. "Một nền kinh tế mạnh, chính sách ngoại giao mở và quân đội đủ năng lực" là triết lý về an ninh của Việt Nam. Việt Nam coi Mỹ là một đối tác không thể thiếu trong việc tìm kiếm phát triển, chính sách ngoại giao mở và an ninh.
Mỹ không chỉ là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam; hợp tác với Mỹ cũng rất quan trọng để thu hút đầu tư chất lượng cao và công nghệ mà Việt Nam phải sở hữu để vượt qua hố săn lùng thu nhập trung bình dự đoán. Việc thu được khả năng kỹ thuật quan trọng thông qua giáo dục cũng là một trong những mục tiêu của Việt Nam. Hiện nay, Mỹ là điểm đến lớn nhất cho sinh viên Việt Nam du học, với khoảng 25.000 sinh viên học tập tại các trường đại học Mỹ, đây là lớp sinh viên nước ngoài lớn thứ năm tại nước này.
Là một kẻ thù trước đây và một siêu cường với hệ thống chính trị khác, mối quan hệ tốt với Mỹ cũng là chìa khóa để Việt Nam hòa nhập vào hệ thống quốc tế, trong đó Mỹ vẫn là một cầu thủ chính trong nhiều khía cạnh.
Tầm nhìn rộng lớn của Washington về một hệ thống quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế, trong đó các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc được tôn trọng, phù hợp với triển vọng ASEAN về Cái công: Ấn Độ Dương (AOIP). Vì vậy, Hà Nội không phản đối vai trò của Mỹ trong Cái công: Ấn Độ Dương, miễn là Mỹ duy trì những vai trò đó phù hợp với AOIP và trong khuôn khổ của luật quốc tế.
Việc nâng cấp mối quan hệ với Mỹ cũng phù hợp với sự kỳ vọng của Hà Nội về một cấu hình toàn cầu đa chủng tốt, trong đó Việt Nam sẽ cố gắng ổn định và làm sâu sắc quan hệ với tất cả những "cực" đó. Chỉ trong vài tháng qua, Việt Nam đã thông báo nâng cấp quan hệ với Hàn Quốc, Úc và Singapore. Mỹ không phải là người đầu tiên và cũng sẽ không phải là người cuối cùng trong chuỗi nâng cấp quan hệ ngoại giao của Việt Nam.
Cuối cùng, khi quan hệ giữa Mỹ và ASEAN được nâng cấp thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2022 tại Phnom Penh, việc nâng cấp mối quan hệ song phương lên cùng mức độ có vẻ có ý nghĩa hoàn hảo, cả về mặt nội dung và thời điểm.
Tóm lại, mục đích cuối cùng của Việt Nam trong việc nâng cấp mối quan hệ ngoại giao với các đối tác trên tất cả các mặt, bao gồm cả với Mỹ, là để tăng cường mạng lưới quan hệ của mình, và nâng cao sự kiên nhẫn và sức mạnh của mình trong một thế giới ngày càng không chắc chắn. Nhu cầu về sự kiên nhẫn không phải là phản ứng đối với bất kỳ mối đe dọa cụ thể, nguồn gốc cụ thể hoặc quốc gia cụ thể nào.